Có thể nói, sự ra đời của Trung tâm Thời trang Lega Fashion, Viện Mẫu thời trang Fadin từ những năm 1990 đã đặt nền móng đầu tiên của nền công nghiệp thời trang Việt Nam. Sau đó, sự tiên phong phát triển thời trang nội địa của một loạt thương hiệu hẳn là một bước tạo đà thuận lợi cho công nghiệp thời trang. Nhưng cho đến lúc này, Việt Nam vẫn đang ở khâu gia công chi phí thấp cho ngành may mặc nước ngoài, và kỳ vọng về một nền công nghiệp thời trang quốc gia vẫn ngoài tầm với.
“Việt Nam là cường quốc xuất khẩu dệt may của thế giới, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm ngoái vượt mức 20 tỉ đô la Mỹ, mục tiêu từ năm 2017-2020, dệt may nước ta sẽ đứng thứ hai, thứ ba trong tốp các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất trên toàn thế giới. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có nền công nghiệp thời trang chuyên nghiệp...”, nhà thiết kế (NTK) Minh Hạnh cho biết.
Tìm nhà thiết kế như mò kim đáy bể
Công nghiệp thời trang cần được coi là một trong những ngành công nghiệp chủ lực của quốc gia. Ngành công nghiệp này không chỉ tiên phong đưa ra các xu hướng thời trang mang bản sắc dân tộc và định hướng người tiêu dùng Việt Nam trong việc chọn lựa hàng may mặc mà quan trọng hơn, công nghiệp thời
trang sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may, chấm dứt tình trạng sản xuất công nghiệp gia công giá rẻ cho nước ngoài.
NTK Minh Hạnh cho biết: “Công nghiệp thời trang cần được hiểu là chuỗi liên kết gồm các yếu tố: thiết kế, nguyên liệu, sản xuất, phân phối... và các khâu phải phát triển một cách đồng bộ. Nhưng chúng ta đã có một “lỗ hổng” lớn ngay khâu đầu tiên”.
Ngành may mặc Việt Nam đã có từ rất lâu nhưng mãi đến năm 1996, chúng ta mới có những lớp đào tạo ngành thiết kế thời trang đầu tiên. Bà Minh Hạnh nói: “Sinh viên ngành thời trang được đào tạo kém bài bản và thiếu trách nhiệm bằng giáo trình sơ sài và giảng viên thì chưa có đủ kiến thức lẫn kinh nghiệm. Không quá bất ngờ khi học viên tốt nghiệp không có đủ kiến thức nền nên ngay cả khả năng phân biệt được các chất liệu và ý tưởng thì xa rời với thực tế cuộc sống”.
Một vài năm gần đây đã xuất hiện một số đơn vị liên kết với các trường đào đạo nước ngoài nên ngành thiết kế thời trang Việt Nam được đào tạo tốt hơn trước nhưng vẫn chưa đáp ứng những tiêu chuẩn cần thiết. Theo bà Minh Hạnh, “việc đào tạo xa rời thực tế đã khiến cho phần lớn các nhà thiết kế trẻ mới ra trường không được đánh giá cao bằng một người công nhân lành nghề”. Những cuộc thi về thiết kế thời trang tổ chức liên tục nhưng với mục đích quảng bá cho các sản phẩm tiêu dùng và ban giám khảo đôi khi lại là những “chân dài” cho đẹp đội hình và thu hút khán giả thì kết quả cũng như một chương trình truyền hình thực tế vui mắt. Các bạn trẻ có đam mê và năng lực cũng hoang mang về điểm đến trong thời trang, về tương lai của mình dù có được giải thưởng hay không.
Phần lớn các nhà thiết kế hiện nay chỉ dừng lại ở khả năng phát triển mẫu (thay đổi dựa trên mẫu có sẵn) chứ chưa tạo được phong cách cá nhân. Chính vì vậy mới có trường hợp “đạo” thiết kế bị báo chí lên tiếng chỉ trích. “Đi tìm một nhà thiết kế có cá tính, phong cách riêng đã khó thì làm sao mà tìm ra một phong cách Việt Nam? Thời điểm này, rất nhiều bạn trẻ đã ra trường với văn bằng thạc sĩ thiết kế thời trang, nhưng hầu hết đều không thể kiếm được việc làm mặc dù rất thiếu các nhà thiết kế làm việc trong các công ty may mặc. Tìm được một nhà thiết kế bình tâm tôi luyện bản thân trong thử thách, hiểu được giá trị nghề, không chạy theo những giá trị ảo của danh vọng và tiền tài đã là niềm mong ước rất khiêm tốn của ngành thời trang Việt Nam”, bà Minh Hạnh cho biết.
Bài toán về nguyên liệu
Không thể có nền công nghiệp thời trang nếu không có chất liệu. Ngành dệt may đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn vải nhập khẩu với tỷ lệ đến 86%, riêng vải nhập từ Trung Quốc chiếm đến 46% (số liệu từ Bộ Công Thương). “Thực tế, Việt Nam có thể phát triển nhiều chất liệu cao cấp không kém gì các nước xuất khẩu vải, thậm chí cả da cá sấu, nhưng vì không có chính sách phù hợp nên một số nhà máy trong nước chỉ sản xuất vải sợi cơ bản, không sáng tạo chất liệu mới, còn những chất liệu quý đang bị chảy máu trầm trọng”, NTK Minh Hạnh nói.
Chất liệu quý hiếm bậc nhất thế giới là da cá sấu cũng đang lâm vào tình trạng này. Nuôi cá sấu là nghề vất vả và tốn nhiều thời gian, nhưng chúng ta dễ dàng bán cho Trung Quốc khoảng 3.000 con cá sấu nhỏ mỗi tháng để phục vụ cho nhu cầu ẩm thực. Da cá sấu thì được bán ra nước ngoài với giá rẻ dạng “da muối” (da chưa thuộc). Nếu không có ngay những chính sách hỗ trợ thì Việt Nam làm sao có thể tự hào khi chỉ có những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ và èo uột.
Đã có những ý tưởng về chợ nguyên liệu, siêu thị kinh doanh nguyên phụ liệu dệt may quy mô quốc gia được họp bàn nhưng đến nay vẫn nằm trên giấy. Những cuộc triển lãm nguyên vật liệu hàng dệt may không thu hút người tham gia. Nơi cung cấp nguyên phụ liệu lớn nhất của các nhà thiết kế TPHCM vẫn là chợ Bến Thành, chợ Tân Định, chợ Tân Bình... và chủ yếu bán vải nhập.
Vì thế, chúng ta vẫn chưa có thương hiệu dệt may nào đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Chúng ta đã có những thương hiệu phát triển kinh doanh thời trang trên dưới 10 năm với chất lượng sản phẩm cạnh tranh nhưng chưa có thương hiệu nào có thể tạo nên các trào lưu thời trang theo từng mùa, ngay cả trên thị trường nội địa.
Hiện nay, chúng ta đang có đội ngũ sản xuất tốt, nhân công giá rẻ mà kỹ năng sản xuất tốt hơn các nước trong khu vực. Hệ thống kênh phân phối và những người làm thương hiệu thời trang đang có những bước tiến đáng kể. Những chuyến đi của nhiều nhà thiết kế đến với nền công nghiệp thời trang Ý, Pháp được xem như những cuộc giới thiệu và định vị cho bản sắc Việt.
“Với thời trang, cần phải có chiến lược phát triển vĩ mô được thực hiện một cách cụ thể, quyết liệt và chuyên nghiệp hơn, để nền công nghiệp thời trang Việt Nam không còn mông lung trong cuộc dạo chơi chậm chạp và không rõ phương hướng như hiện nay”, NTK Minh Hạnh trăn trở.
Theo thegioisaigon